SIRO HO ANPHA
* Thành phần nổi bật
Cao thường xuân :
Tại Châu Âu, cây Thường Xuân được biết đến với vai trò là một loại thảo dược trị viêm đường hô hấp cấp tính và mãn tính hơn là vai trò một cây cảnh. Từ xa xưa, nhiều thầy thuốc đã sử dụng tất cả các bộ phận của cây Thường Xuân ( rể, lá, hoa, quả) để trị các bệnh như: bệnh lỵ, đau tai, bệnh gút, sốt … Đặc biệt, nghiên cứu khoa học đã chứng minh cao lá Thường Xuân là thuốc chế ho cực kỳ hiệu quả. Trong lá Thường Xuân có chứa glycoside, đây là hoạt chất giúp làm giãn cơ trơn phế quản, long đờm, mát niêm mạc họng, giảm đau, thông mũi và dịu cơn ho.
Tinh dầu lá Thường Xuân được chiết xuất dưới dạng siro, dùng để uống. Người lớn và trẻ em đều có sử dụng.
Menthol/ Khuynh diệp :
Phòng, trị cảm cúm, sổ mũi, nghẹt mũi, ho tức ngực, đau bụng, nhức mỏi, nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, côn trùng đốt, trặc gân, sưng.
Từ xưa đến nay, dầu khuynh diệp vẫn được sử dụng như một phương thuốc dân gian trị cảm lạnh và những bệnh có liên quan đến đường hô hấp. Chúng được dùng để hỗ trợ khả năng hít thở ở những trường hợp bị nghẹt mũi do chứng cảm lạnh gây ra, làm thông thoáng đường hô hấp khi bạn bị khó thở do mũi bít, tắt. Khả năng kháng khuẩn của dầu khuynh diệp cũng sẽ giúp tống đẩy bớt lượng vi khuẩn đang lưu trú ở đường hô hấp.
Ngoài ra, khi bạn hít loại dầu này, mùi hơi của chúng có công dụng làm thông mũi hiệu quả, làm giảm bớt các triệu chứng khó chịu của bệnh viêm phế quản và tình trạng nghẹt mũi
Gừng :
Theo Trung thảo dược NXBKHKT Phúc kiến của Gs - Viện sĩ Từ Quốc Quân. Trong gừng có chứa tinh dầu, thành phần chủ yếu là Zingiberol, Zingibereme, bisibolem, - carcumene, linalon, cinele, - camphor, chất tạo ra vị cay của gừng là gingerol và dẫn xuất của nó do phân hủy là gingeron, còn chứa nhiều axit amin. Gừng có tác dụng bảo vệ tế bào gan đã bị hư tổn và tế bào niêm mạc dạ dày, ức chế hoạt động trên động vật ức chế trung khu thần kinh gây co giật, nâng cao huyết áp tạm thời.
Ngoài ra, gừng còn có tác dụng lợi mật, giảm đau, chống ngưng kết tiểu cầu, chống viêm, kháng khuẩn. Do đó, gừng có tác dụng ôn trung tán hàn, hồi dương thông mạch, táo thấp tiêu viêm. Gừng được dùng khi bụng bị lạnh đau, nôn mửa, tiêu chảy, chân tay lạnh yếu, ho hen do đàm ẩm. Liều lượng: 3 - 9 g/ngày.
Riềng :
Riềng có tên là Phong khương, có khá (Thái), Kìm sung (Dao) hay Cao Lương Khương. Cái tên Cao Lương Khương có nghĩa là Gừng (Khương) mọc ở đất Cao Lương (Trung Quốc) mà thành tên.
Riềng có tác dụng gây giãn mạch trên mạch máu cô lập và chống co thắt cơ trên ruột, có thể làm lành các vết loét, thay đổi một số thành phần trong thải lọc máu.
Theo y học cổ truyền: Riềng có vị cay, mùi thơm, tính ẩm vào hai kinh tỳ và vị , có tác dụng ôn trung, tán hân, giảm đau, tiêu thức ăn.
Trong Tây y : Riềng thường được dùng để làm thuốc kích thích tiêu hóa, chữa đầy hơi, đau bụng đi lỏng, nôn mửa, ợ hơi, đau dạ dày, cảm sốt, sốt rét, có thể nhai dập chữa đau răng. Riềng bánh tẻ ngậm chữa viêm thanh quản (khàn tiếng) rất tốt.
* Công dụng :
Giúp làm ấm cơ thể, bổ phế, giảm ho, giảm rát họng, khản tiếng, làm loãng niêm mạc, các trường hợp ho do thay đổi thời tiết,ho gió, ho khan.
Giúp lưu thông phế quản phổi, chức năng đường thở thật dễ dàng.
Thành phần : mỗi 100 ml chứa
- Cao thường xuân : 10 mg
- Tinh dầu tràm : 0,05 mg
- Dầu khuynh diệp : 0,05 mg
- Cam thảo : 1,500 mg
- Riềng : 150 mg
- Gừng : 50 mg
- Mật ong : 10,000 mg
- Menthol : 100 mg
- Đường tinh luyện : 66,700 mg
- Nước vừa đủ